Tuesday, April 27, 2010

VĂN MIẾU Ở HUẾ BAO GIỜ SẼ PHỤC DỰNG XONG?


Cảnh sông Hương trước Văn Miếu.

Dưới triều nhà Nguyễn, Văn Miếu của cả triều đại và cũng là của toàn quốc được chính thức xây dựng vào năm 1808 dưới triều vua Gia Long. Miếu được xây dựng uy nghi đồ sộ, nằm bên bờ sông Hương, thuộc địa phận thôn An Bình, làng An Ninh, phía Tây Kinh thành Huế. Văn Miếu Huế hay Văn Thánh Huế là cách gọi tắt của Văn Thánh Miếu được xây dựng tại Huế

Khi các chúa Nguyễn mở mang khai phá phương Nam, Văn Miếu được thiết lập ở Phú Xuân, tại làng Triều Sơn và được xem như Văn Miếu riêng của Đàng Trong, nhưng không rõ thời điểm xây dựng. Đến năm Canh Dần (1770) dưới triều của Định Vương Nguyễn Phúc Khoát, Văn Miếu được dời đến xã Long Hồ. Đến thời nhà Nguyễn, Văn Miếu được xây dựng dưới triều vua Gia Long, ngôi miếu cũ được giữ lại để làm Khải Thánh Từ, tức miếu thờ cha mẹ của Khổng Tử.
Việc xây dựng Văn Miếu được tiến hành từ ngày 17 tháng 4 đến ngày 18 tháng 9 năm 1808, vua Gia Long ra lệnh làm các đồ tự khí mới để thờ, thay thế các đồ cũ và tượng thánh hiền được thay bằng bài vị.
Suốt thời Gia Long trị vì, triều đình nhà Nguyễn chỉ mở các khoa thi hương nên không có tấm bia tiến sĩ nào được dựng ở Văn Miếu. Đến thời Minh Mạng mới mở các khoa thi hội, nên bia tiến sĩ cũng bắt đầu được dựng. Các "tiến sĩ đề danh bí" được lần lượt dựng lên ở sân Văn Miếu từ năm 1831 đến năm 1919, năm có khoa thi Hội cuối cùng dưới thời vua Khải Ðịnh.
Văn Miếu Huế đã được tu sửa, làm mới một số đồ thờ và xây dựng thêm một số công trình phụ vào các năm 1818 (thời Gia Long); 1820, 1822, 1830, 1840 (thời Minh Mạng); 1895, 1903 (thời Thành Thái). Đến năm 1947, khi quân đội Pháp tái chiếm Huế và đồn trú tại đây đã gây thiệt hại cho di tích này. Lúc đó, các bài vị thờ ở Văn Thánh được đưa về bảo quản tại chùa Thiên Mụ [1].
Kiến trúc
Khi còn nguyên vẹn, nơi đây có gần 20 công trình lớn như: Văn Miếu (điện thờ), Đông vu, Tây vu, Thần trù, Thần khố, Hữu Văn Đường, Duỵ Lễ Đường, nhà Thổ Công, Đại Thành Môn, Văn Miếu Môn, quan Đức Môn, Linh Tinh Môn, la thành, bến vua ngự...
Từ Đại Thành Môn nhìn vào phía trong, ngay chính giữa có ngôi đại điện thờ Khổng Tử gọi là Đại Thành Điện. Đây là kiến trúc trọng yếu của Văn Miếu, toàn bộ được dựng trên một nền cao, dài chừng 32m, rộng 25m. Cấu trúc của ngôi đại điện theo lối trùng thiềm điệp ốc truyền thống của Huế. Ở hai bên trước điện Đại Thành, dựng hai ngôi nhà đối diện nhau là Đông Vu và Tây Vu đều bảy gian.
Trước sân miếu, có hai nhà bia, bên phải có tấm bia khắc bài văn bia ”Thánh Tổ Nhân Hoàng đế dụ: Cung giám bất đắc liệt tấn thân” (vua Minh Mạng dụ về việc Thái giám không được liệt vào hạng quan lại); bia ở nhà bia bên trái khắc bài văn bia “Hiến Tổ Chương Hoàng đế dụ: Ngoại thích bất đắc thân chính” (vua Thiệu Trị dụ về việc bà con bên ngoại của vua không được tham gia chính quyền).

Phía ngoài cổng Đại Thành, bên trái có Hữu Văn Đường; bên phải xây Duỵ Lễ Đường. Đây là những ngôi nhà kiểu một gian hai chái dùng để vua quan nghỉ chân sửa soạn lễ phục trước khi vào tế ở miếu. Phía trước là hai dãy gồm 32 tấm bia, khắc tên 293 vị Tiến sĩ triều Nguyễn, bắt đầu từ khoa thi đầu tiên năm Minh Mạng thứ 3 (1822) đến khoa thi cuối cùng vào năm Khải Định thứ 4 (1919).
Trước cổng Văn Miếu, gần bờ sông có cửa Linh Tinh Môn gồm bốn trụ xây bằng gạch, phần trên trang trí pháp lam. Tấm biển ở giữa phía trước có đề bốn chữ Hán lớn “Đạo Tại Lưỡng Gian” (đạo giữa trời đất); mặt sau đề bốn chữ Hán tương đương “Trác Việt Thiên Cổ” (vượt cao ngàn xưa). Hai bên khu vực trước cổng Văn Miếu có tấm bia “Khuynh cái hạ mã” (nghiêng lọng xuống ngựa).
Văn Miếu Huế được xây dựng ngoài việc thờ Khổng Tử còn thờ Tứ Phối: Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư và Mạnh Tử, cùng Thập Nhị Triết. Đông Vu và Tây Vu gồm 14 án, thờ các Tiên Hiền và Tiên Nho, những người có công trong việc phát triển đạo Nho. Đối với việc thờ phụng, triều Nguyễn cho lập bài vị bằng gỗ gọi là linh vị, mộc chủ, thần chủ để thờ và buộc tất cả các địa phương nơi nào thờ Khổng Tử bằng hình tượng đều phải thay thế bằng bài vị mộc chủ, còn các tượng thì phải lựa chọn nơi sạch sẽ chôn đi vì triều Nguyễn cho rằng thờ bằng hình tượng là thiếu trang trọng, thiếu lễ độ đối với người đã khuất, cho nên ngay cả bàn thờ các vua Nguyễn cũng không hề thờ bằng hình tượng.
Văn Thánh trong ca dao:

Văn Thánh trồng thông, Võ Thánh trồng bàng
Ngó vô Xã Tắc hai hàng mù u

Trên 32 tấm bia đá tại Văn Thánh Huế, có ghi họ tên, tuổi tác và quê quán của 293 vị tiến sĩ, một số nhân vật đó là: Phan Thanh Giản; Phan Đình Phùng; Tống Duy Tân; Nguyễn Xuân Ôn; Đinh Văn Chất; Phạm Văn Nghị; Dương Khuê; Nguyễn Thượng Hiền; Nguyễn Khuyến; Chu Mạnh Trinh; Đào Nguyên Phổ; Ngô Đức Kế; Huỳnh Thúc Kháng...
.........................................................................................
Đã lâu lắm rồi trên truyền hình có nói đến chuyện phục dựng lại Văn Miếu Huế...Hôm nay, có dịp ghé lại...
Nhìn những nền nhà được định vị bởi các viên đá kê im lìm dưới lớp cỏ xanh, những bậc tam cấp phủ rêu lặng lẽ. Không gian im vắng, cô quạnh....

Người ta xây mới nhiều ngôi nhà, người ta đập đi và sửa lại nhiều ngôi mộ để thật lộng lẫy...Còn ở đây hình như vẫn thiếu một chút sinh khí và quạnh quẽ quá!
Có bao nhiêu sinh viên tìm đến đây để có thêm một chút hiểu biết về quá khứ? 

Huế là đất văn vật...
.. Để Huế có thêm một địa điểm du lịch thú vị. Và để người dân Huế lại được giao hòa với một nét văn hóa đặc trưng của Huế.
Bao giờ Huế.. có đủ tiền để có thể phục dựng đầy đủ vẻ đẹp vốn dĩ của Văn Miếu Huế?

38 comments:

  1. Cảnh sông Hương trước Văn Miếu.

    ReplyDelete
  2. Hồ hoa súng trong công viên Thương Bạc.

    ReplyDelete
  3. Loang lổ, cổ kính nhưng đẹp quá.

    ReplyDelete
  4. ngocyen bấm vào chữ slideshow để xem hình lớn hơn

    ReplyDelete
  5. Những người muôn năm cũ
    Hồn ở đâu bây giờ?

    ReplyDelete
  6. Cành hoa xuyến chi hoang dại, nhỏ bé cạnh cây tùng...ý và ảnh rất hay,
    cảm ơn chùm ảnh của cô về di tích...nhớ thời sv có đến thăm và tìm ...

    ReplyDelete
  7. Nhìn mấy viên đá kê mà thấy lòng bâng khuâng..Nghĩ đến nơi đây đã từng là nơi tôn nghiêm, đã từng một thời vàng son, biểu thị cho văn hóa nước nhà... Bây giờ chỉ còn lại nền cỏ, quạnh quẽ ngay trên mảnh đất quê của mình..
    Có phải mình đã không biết trân quý tiền nhân, quý trọng lịch sử và không biết giữ gìn quá khứ không?

    ReplyDelete
  8. Dùng buô`n ban a! dâ't nuo'c VN co`n nghe`o mà. Bên My~ dân ho gia`u nên thuo`ng dóng góp cho thu viên, museum va` van ho'a nghê thuât nhiê`u, vi` vây ho co' nhiê`u ca~nh quan dep. Hy vong tuong lai VN mi`nh co' thê~ vuon lên.

    Chu'c ban nhu~ng ngày lê~ vui ve~ vo'i gia di`nh ha.

    ReplyDelete
  9. Người như bác, 1 số bạn bloggers chúng ta so với những kẻ vọng ngoại hay khoe của xây "lăng" cho thân nhân bất kể gia phong quốc lệ, quá ít ỏi !!!! Nói gì hả bác !!!!

    Chỉ hy vọng ngày nào đó toàn dân ta thức tỉnh, nhà nước bớt phí công quỹ vào những "dự án" vô bổ ... rồi nghĩ đến việc trùng tu những di tích lịch sử, bác à.

    Xin phép bác được chia sẻ bài viết cùng các ảnh của bác với thân hữu ngoài Mul, bác nhé.

    Mong thay.

    ReplyDelete
  10. Xin bác cứ tự nhiên. Chỉ mong nếu được, bác trao đổi với bà con bên đó:tiết kiệm những tiền xây lăng lại để cho vào một cái quỹ gọi là trùng tu di tích lịch sử. Thực tế thì tôi được đi tham quan một số tỉnh ngoài Bắc thấy họ trùng tu đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trãi hay đền Hưng Đạo vương rất đẹp. Thiết nghĩ bên cạnh công quỹ còn có ý thức giữ gìn và đóng góp của người dân sở tại.
    Ở Huế vì trong một thời gian dài trở thành đơn vị hành chính quận cho tỉnh Bình Trị Thiên nên không được quan tâm đúng mức.

    ReplyDelete
  11. Cảm ơn bác cho phép chuyển bài viết. Thực tế là tôi hiện đang bị dân bên này coi là "lkhác chiến tuyến" vì liên hệ đến các sinh hoạt thanh nên bên nhà. huhuhu
    Tuy nhiên tui sẽ nói chuyện với 1 số bẳng hữu gốc miền Trung, để họ "đặt vấn đề" có lẽ hiệu quả hơn bác à. Tôi có 1 anh bạn, GS Nguyễn Văn Sở , khá uy tín trong "cộng đồng" gốc Trung; hy vọng tiếng nói của anh được nhiều người lắng nghe.
    Đúng ra thì phải kiểm kê lại mọi miền để trùng tu các di tích lịch sử cho mai hậu, bác nhỉ ? Kể cả di sản các sắc dân thiểu số Thái, Chàm, Gia Rai, Ra Đê v.v. tất cả là những sợi chỉ vô cùng quý báu của bức tranh dệt văn hóa dân tộc.

    ReplyDelete
  12. Vâng, đúng như thế. Riêng Văn miếu _Huế tôi đã nghe bàn chuyện trùng tu phải hơn 10 năm trước rồi! Trong mấy năm qua cũng có trùng tu nhưng chưa ăn thua..

    ReplyDelete
  13. Giờ mà họ bu lại thì lại thành phục chế không giống ai mất.

    ReplyDelete
  14. Rêu phong nhưng cây cỏ thì xanh tươi.

    ReplyDelete
  15. Có gần thành phố Huế không vậy?

    ReplyDelete
  16. Cũng còn lưu lại chút gì.

    ReplyDelete
  17. Mấy cảnh này nhìn thấy nét cổ.

    ReplyDelete
  18. Rất gần, khoảng 1980 có dịp ra Hà Nội thì Văn Miếu Hà Nội tiêu điều xơ xác lắm!
    Nếu có đầu tư phục dựng Văn Miếu Huế may ra mới vực lại miền Trung thương nhớ!

    ReplyDelete
  19. Chổ này có bảng, ngựa xe qua đó phải xuống ngựa xuống xe.

    ReplyDelete
  20. Viên đá kê dưới cột nhà đó.

    ReplyDelete
  21. Thấy người ta bỏ tiền trùng tu Văn Miếu Hà Nội mà tủi! Ngày trước mô đến nỗi tệ tan hoang như rứa! Ngẫm ra người ta vắt kiệt Huế như vắt sữa mà chẳng cho Huế có cái hồn! Hay phải vay mượn hồn mãi sao?

    ReplyDelete
  22. Rứa mà cũng "Cố đô Huế "đó chị!Tủi!

    ReplyDelete
  23. Tủi rơi, tủi rụng luôn chớ!

    ReplyDelete
  24. Cảm ơn người xứ Huế...Cảm ơn chị nhe ... hu hu...

    ReplyDelete
  25. Cam on bai viet va anh cua BT. Toi da coi tren TV, nhung bay gio moi thay cu the VM Hue can trung tu.

    ReplyDelete
  26. Cam on bai viet va anh cua BT. Toi da coi tren TV, nhung bay gio moi thay cu the VM Hue can trung tu.

    ReplyDelete
  27. bài viết hay
    hình chị chụp đẹp nữa
    hình như đi qua chùa Thiên Mụ là đến đây, phải ko chị?

    ReplyDelete
  28. Đúng đó susu, từ chùa Thiên Mụ đi lên chừng 1 cây số nữa.

    ReplyDelete
  29. không thể nhận ra đây là Linh Tinh Môn luôn

    ReplyDelete
  30. Nó nằm chỏng chơ mấy chục năm rồi đó.

    ReplyDelete